CÁC PHƯƠNG PHÁP TÍNH TUỔI THAI

I. Tại sao phải tính tuổi thai?
Tuổi thai là một trong những vấn đề quan trọng cần xác định sớm trong thai kỳ vì thông qua đó người bác sĩ sản khoa sẽ:
-          - Đưa ra lịch trình thăm khám phù hợp cho thai phụ, từ đó xác định được thời điểm thực hiện các xét nghiệm sàng lọc cho thai nhi, cải thiện được giá trị dự đoán của test sàng lọc trong lệch bội NST (trisomy 21; 18; 13).
-          - Đưa ra hướng xử trí phù hợp trong trường hợp dọa sinh non, sinh non hay thai quá ngày.
-          - Đánh giá đúng sự tăng trưởng của thai nhằm phát hiện kịp thời những trường hợp thai tăng trưởng bất thường.

II. Các phương pháp tính tuổi thai
Có 8 phương pháp tính tuổi thai:
-          - Dựa vào ngày đầu của chu kỳ kinh cuối - Công thức Naegele.
-          - Dựa vào ngày đầu của chu kỳ kinh cuối -  Dùng bảng xoay tính tuổi thai.
-          - Tính tuổi thai bẳng siêu âm.
-         -  Đo bề cao tử cung.
-          - Tính tuổi thai theo thai máy.
-          - Tính tuổi thai theo ngày rụng trứng.
-          - Phương pháp sinh hóa.
-          - Phương pháp X – quang.

1. Công thức Naegele.
-             Yêu cầu:
    + Chu kỳ kinh đều, 28 ngày
    + Sản phụ nhớ rõ ngày đầu của chu kỳ kinh cuối và phải tính theo ngày dương lịch (nếu sản phụ nhớ ngày âm lịch thì chuyển qua ngày dương lịch rồi mới dùng công thức).
-             Công thức Naegele: dựa vào ngày, tháng, năm của kinh cuối, áp dụng:
                   Ngày +7;  Tháng – 3;  Năm +1 (đối với tháng 4 đến tháng 12)
                                                 Năm +0 (đối với tháng 1; 2; 3).
-             Thai kỳ bình thường có độ dài là 40 tuần (280 ngày) kể từ ngày bắt đầu chu kỳ kinh cuối. Công thức Naegele thực chất là lấy ngày đầu kinh cuối + 280 ngày = ngày dự sanh.
-             Tại sao chọn mốc là ngày đầu kinh cuối để tính tuổi thai, trong khi ngày rụng trứng và có khả năng được thụ tinh sau đó là ngày 14 (chu kỳ kinh 28 ngày) ?
Kỳ thực, thai kỳ chỉ thật sự bắt đầu kể từ ngày phóng noãn có thụ tinh, theo sau bằng sự làm tổ thành công của phôi. Trong 2 tuần đầu tiên kể từ ngày kinh cuối, tại buồng trứng và tử cung chỉ xảy ra những hiện tượng chuẩn bị cho sự thụ tinh dẫn đến thai kỳ này. Như vậy, tuổi thai dùng trong thực hành lâm sàng lớn hơn tuổi thai thật của phôi/thai 14 ngày. Nhưng vì, người phụ nữ không thể tự ghi nhận được chính xác ngày rụng trứng của mình. Đối với thai phụ, điểm mốc cụ thể mà họ có thể biết và tính toán được là ngày có kinh bình thường lần cuối cùng. Vì thế, ngày đầu tiên của kinh cuối này được qui ước là thời điểm bắt đầu để tính tuổi thai, dù rằng lúc này người phụ nữ chưa mang thai.

2. Dùng bảng xoay tính tuổi thai
-             Thực chất cũng là dựa vào ngày đầu kinh cuối, nên nó cũng có những yêu cầu như công thức Naegele.
-             Trên bảng xoay có hai 2 mũi tên tương ứng với 1 mũi tên chỉ ngày đầu kinh cuối và mũi tên còn lại chỉ ngày dự sanh. Hai mũi tên này sẽ cách nhau 40 tuần (280 ngày).
-             Bảng xoay này ngoài cho ta biết ngày dự sanh, nó còn giúp ta xác định được thai này bao nhiêu tuần tại thời điểm khám thai.

3. Tính tuổi thai bằng siêu âm
-             Tính tuổi thai theo siêu âm trong tam cá nguyệt I (3 tháng đầu) có độ chính xác cao hơn so với tính tuổi thai theo siêu am trong tâm cá nguyệt II và III vì sự khác biệt về sinh trắc của phôi ở tam cá nguyệt I ít hơn của thai ở cuối tam cá nguyệt II và III. Do đó, cần hỏi sản phụ kỹ là siêu âm lần đầu phát hiện có thai lúc đó thai được bao nhiêu tuần rồi từ đó ta tính ra ngày dự sanh? và ta chỉ tin vào kết quả siêu âm khi được siêu âm xác định trong tam cá nguyệt I.
-             Xác định tuổi thai trên siêu âm dựa vào các chỉ số:
+ Đường kính túi thai GS (Gestational Sac)
Đường kính của túi thai: khi thai 3-5 tuần tuổi, trên siêu âm có thể thấy được hình ảnh của một túi thai tròn đều, có hình ảnh vòng đôi, sẽ phát triển thành xoang ối sau này. Túi thai sớm nhất có thể thấy được qua siêu âm ngả âm đạo khi có kích thước 2-3 mm tương ứng với tuổi thai 32-33 ngày, GS tăng trung bình 1 mm mỗi ngày. Đây là yếu tố phổ biến, tiêu chuẩn giúp định tuổi thai sớm nhất qua siêu âm. Tuổi thai (ngày) có thể tính được bằng cách lấy GS cộng 30. Tuy nhiên, độ chính xác của MSD sẽ giảm khi GS lớn hơn 14 mm hoặc khi xuất hiện phôi. Khi đã có phôi, không nên dùng GS để tính tuổi thai nữa vì tuổi thai tính bằng GS có nhiều sai số hơn so với CRL.
                                         Tuổi thai (ngày vô kinh) = 30 + MSD (mm)
+ Chiều dài đầu mông CRL (Crown Rump Length)
Chiều dài đầu mông (CRL): CRL đo được tốt nhất khi ≥ 10 mm nên nếu có nhiều kết quả siêu âm ở tam cá nguyệt I thì nên dùng kết quả siêu âm sớm nhất với CRL ≥ 10 mm để tính tuổi thai. Tuổi thai (tuần) có thể tính được bằng cách lấy CRL cộng 6.5 hoặc bằng cách lấy CRL cộng 42 chia 7. Khi CRL > 84 mm thì độ chính xác của nó trong việc định tuổi thai giảm đi nên lúc đó cần sử dụng các chỉ số sinh trắc khác.
                                         Tuổi thai (ngày vô kinh) = 42 + CRL (mm)
+ Đường kính lưỡng đỉnh BPD (Biparietal Diameter)
Ở thời điểm 11-13 tuần 6 ngày, sử dụng CRL và BPD có độ chính xác tương đương nhau trong việc định tuổi thai tuy nhiên khi CRL > 84 mm thì nên dùng BPD. Tại thời điểm 11 tuần, trị số BPD trung bình là 17 mm và sẽ tăng 3 mm mỗi tuần.
                                       Tuổi thai (tuần vô kinh)  = 1/3 X (BPD – 17) + 11
-             Siêu âm trong tam cá nguyệt II và III không còn chính xác để định tuổi thai. Ở tam cá nguyệt II và III có thể sử dụng các chỉ số sinh trắc có được qua siêu âm như đường kính lưỡng đỉnh, chu vi đầu, chu vi bụng (adomen circumference AC) và chiều dài xương đùi (femur length FL) để tính tuổi thai. Nếu cần phải tính tuổi thai ở tam cá nguyệt II hoặc III, nên phối hợp nhiều chỉ số để tăng độ chính xác vì mỗi chỉ số đều có thể sai lệch trong những trường hợp nhất định. BPD có thể không chính xác khi hộp sọ thai có hình dạng đặc biệt như hộp sọ dài hay brachycephaly, AC dễ sai số vì bụng không có xương bao quanh, không đối xứng mà sẽ thay đổi theo cử động thai, FL lại thay đổi nhiều theo chủng tộc hoặc trong các bất thường như lệch bội hay bất sản xương, thêm vào đó những khác biệt về sinh học bình thường cũng ảnh hưởng đến các chỉ số sinh trắc trong tam cá nguyệt II và III vì vậy ở nửa sau của thai kỳ việc định tuổi thai bằng siêu âm không còn chính xác như trong tam cá nguyệt I.
-             Hiệu chỉnh tuổi thai: Nếu có sự sai lệch tuổi thai/ngày dự sanh theo kinh cuối (Naegele hay bảng xoay) và trên siêu âm thì:
+ Sai lệch <= 6 ngày: Lấy tuổi thai và ngày dự sanh theo kinh cuối.
+ Sai lệch >6 ngày: Lấy tuổi thai và ngày dự sanh theo siêu âm.

4. Đo bề cao tử cung (BCTC):
-             Tuổi thai (tháng) = BCTC (cm)/4 + 1
-             Cách này không chính xác vì những lý do:
+ Lớp mở dưới da
+ Đa thai
+ Đa ối
+ Sản phụ có u xơ tử cung kèm theo.

5. Tính tuổi thai theo thai máy
-             Thai máy: là cảm nhận của sản phụ khi thai nhi đạp.
-             Công thức:
+ Đối với con so: ngày dự sanh = ngày thai máy + 22 tuần
+ Đối với con rạ: ngày dự sanh = ngày thai máy + 24 tuần
-             Hiện nay phương pháp này thường dùng để đánh giá sự phát triển của thai hơn là dùng tính tuổi thai vì dấu hiệu này thường xuất hiện muộn và phụ thuộc cảm nhận chủ quan của sản phụ.

6. Tính tuổi thai theo ngày rụng trứng hay ngày chuyển phôi
-             Thường gặp trong hỗ trợ sinh sản.
-             Có thể tính tuổi thai một cách chính xác vì biết được ngày phóng noãn hoặc ngày chuyển phôi và tuổi phôi.
-             Công thức: Ngày dự sanh = ngày phóng noãn/ngày chuyển phôi + 266 ngày

7. Phương pháp sinh hóa
-             Phân tích thành phần nước ối, thành phần nước tiểu, máu góp phần chẩn đoán thời gian đủ tháng hoặc còn non tháng chứ không phải là một phương pháp tin cậy.
-             Hiện nay không còn dùng để tính tuổi thai.

8. Phương pháp X – quang
-             Để chẩn đoán thai đủ tháng khi xuất hiện điểm cốt hóa ở đầu trên và đầu dưới xương đùi. Sai lệch: +/- 2 tuần.
-             Hiện không còn dùng phương pháp này.

Tóm lại:
-             Tuổi thai rất quan trọng với một thai kỳ. Vì vậy cần phải xác định chính xác tuổi thai.
-             Các phương pháp phổ biến thường dùng trên lâm sàng:
+ Dựa vào kinh cuối rồi áp dụng công thức Naegele hoặc dùng bảng xoay tuổi thai.
+ Siêu âm tính tuổi thai trong tam cá nguyệt I.
-             Hiệu chỉnh tuổi thai: Nếu có sự sai lệch tuổi thai/ngày dự sanh theo kinh cuối (Naegele hay bảng xoay) và trên siêu âm thì:
+ Sai lệch <= 6 ngày: Lấy tuổi thai và ngày dự sanh theo kinh cuối.
+ Sai lệch >6 ngày: Lấy tuổi thai và ngày dự sanh theo siêu âm.